Di
tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo Hành Thiện, gồm Chùa Keo trong (Thần Quang tự),
Chùa Keo ngoài (Đĩnh Lan tự), thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định.
Quang cảnh di tích - Nguồn: Cổng TTĐT Bảo tàng tỉnh Nam Định
Chùa
Keo Hành Thiện thờ “tiền Phật, hậu Thánh”, ngoài thờ Phật còn thờ Đức
Thánh tổ - Thiền sư Dương Không Lộ. Theo tài liệu ghi chép, Đức Thánh tổ Dương
Không Lộ, huý là Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ, quê cha ở làng Giao Thuỷ, phủ Hải
Thanh (Nam Định), quê mẹ ở phủ Ninh Giang (Hải Dương). Dương Không Lộ là nhân vật
lịch sử có công lớn đối với vương triều Lý, được vua Lý phong làm Quốc sư kiêm
Đại pháp sư. Dân làng Hành Thiện thờ phụng Ngài là vị Phúc thần - Thành hoàng tối
linh, người con của quê hương, người có công lao khai sáng và tạo lập ra chùa
Keo Hành Thiện và làng Hành Thiện.
1. Chùa Keo trong
(Thần Quang tự): ban đầu có tên là chùa Nghiêm
Quang, sau đổi là chùa Thần Quang. Theo các nguồn tài lệu và truyền thuyết dân
gian thì Dương Không Lộ cho xây dựng chùa Nghiêm Quang vào năm Tân Sửu (1061),
đời vua Lý Thánh Tông. Sau khi dựng xong, Thánh tổ đã trụ trì tại đây. Chùa được
xây dựng trên đất Giao Thuỷ, phủ Hải Thanh, nên về sau dân gian còn gọi theo địa
danh là chùa Giao Thuỷ (có nghĩa là vùng nước ngọt và nước mặn giao nhau khi nước
triều lên). Vì “Giao” có âm Nôm là “Keo” nên chùa Giao Thuỷ còn có tên là chùa
Keo. Đến năm Kỷ Hợi (1119), sau khi Dương Không Lộ mất 25 năm, vua Lý Nhân Tông
cho tu sửa lại chùa Nghiêm Quang, cắt 3.000 hộ hương khói phụng sự. Tháng Ba,
năm Đinh Hợi (1167), dưới đời vua Lý Anh Tông, chùa được đổi tên thành chùa Thần
Quang và được ban 5 mẫu ruộng hương đăng.
Trải
qua hai triều đại Lý, Trần với sự cực thịnh, huy hoàng của Phật giáo, đến năm Mậu
Tý (1588) và Tân Hợi (1611), nước sông Hồng dâng cao, gây vỡ đê, lụt lội...,
chùa Thần Quang (Keo) đã bị chôn vùi, sau hơn 500 năm tồn tại. Sau sự kiện đó,
nhân dân vùng này phải chuyển đi hai nơi, tạo lập làng mới. Một bộ phận dời
sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ (nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình), phần chuyển đến vùng hữu ngạn sông Hồng lập nên làng Hành Cung sau
đổi tên là làng Hành Thiện dưới đời vua Minh Mệnh (nay là thôn Hành Thiện, xã
Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Dân hai nơi đều xây dựng một ngôi
chùa mới nhưng có chung phong cách thờ tự “tiền Phật, hậu Thánh”; kiến trúc kiểu
“nội công, ngoại quốc”, cùng thờ Thiền sư Dương Không Lộ và vẫn mang tên cũ là
chùa Keo (Thần Quang Tự).
Tấm
bia cổ nhất tại chùa “Tu tạo Thần Quang tự bi ký” soạn vào ngày 25 tháng Tám,
niên hiệu Hoằng Định 13 (1613), đời vua Lê Minh Tông xác nhận chùa Thần Quang
đã được xây dựng từ trước đó. Nội dung văn bia còn cho biết chùa là danh lam thắng
cảnh trong thiên hạ, đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Năm Mậu Thìn
(1628), niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, đời vua Lê Thần Tông, chùa được tu sửa và mở
rộng quy mô. Đến năm Tân Hợi (1671), niên hiệu Cảnh Trị thứ 9, đời vua Lê Huyền
Tông, chùa được đại tu lại và dấu vết kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thế
kỷ XVII vẫn lưu giữ đền Thánh và Tam quan nội kiêm gác chuông. Năm 1685, đời
vua Lê Hy Tông, chùa được tu sửa nhỏ. Năm Nhâm Ngọ (1702), niên hiệu Chính Hòa
thứ 23, đời vua Lê Hy Tông, chùa tiếp tục được tu sửa, đúc tượng Đức Thánh tổ
Dương Không Lộ.
Sang
thế kỷ XIX, chùa Thần Quang tiếp tục được trùng tu, đúc chuông khánh, bổ sung
thêm tượng, kiệu và những đồ thờ tự khác. Năm 1929, Trường Viễn Đông bác cổ đã
tiến hành tu sửa lớn, tô tượng vì trận bão năm 1929 làm chùa bị hư hỏng nặng.
Năm 1961, nhà ký đồ (phía sau đền Thánh) được đại tu, có khắc chữ ghi dấu trên
xà lòng gian giữa. Năm 1971, nhà tổ được trùng tu. Năm 1992, xây dựng nhà
khách. Năm 1997 trùng tu đền Thánh và hành lang. Năm 1998, dân làng xây nhà trải.
Năm 1999, xây cổng và tường bao khu vực vườn cảnh phía trước chùa. Năm 2003,
dân làng tiến hành tu sửa đền Thánh...
Chùa
tọa lạc trên một khu đất rộng hơn 1ha tại làng Hành Thiện, quay hướng Nam, xung
quanh có sông bao bọc; là một tổng thể phức hợp của các đơn nguyên kiến trúc
phân bổ theo một trật tự nhất định trên một khuôn viên hình chữ Nhật kiểu “nội
công, ngoại quốc”; mặt bằng các công trình được cân đối theo một trục dọc - đường
thần đạo, bao gồm: Tam quan ngoại, Tam quan nội kiêm gác chuông, phủ Mẫu, hành
lang, chùa Phật, đền Thánh, nhà ký đồ, nhà Tổ, nhà oản, nhà bếp…
Tam quan ngoại: xây
kiểu tường hồi bít đốc, dài 7,60m, rộng 6,90m, cao 5,60m, gồm 3 gian: gian giữa
rộng 3,30m, hai gian bên rộng 2,15m. Bộ khung chịu lực của tam quan được kết cấu
với 4 bộ vì kiểu 3 hàng chân cột; kết cấu vì gỗ được liên kết bởi các trụ, xà,
con rường, bẩy hiên, phía trên là hệ thống hoành, rui gỗ, mái lợp ngói di nhỏ.
Căn cứ vào phong cách xây dựng và đặc biệt là dòng chữ Hán khắc trên cấu kiện
xà lòng, có thể khẳng định, Tam quan được xây dựng lại vào đầu thế kỷ XX.
Tam quan nội kiêm gác
chuông: được xây sát đường đi, gần hồ nước, mặt
bằng hình chữ Nhật, dài 12m, rộng 6,55m, gồm 5 gian (3 gian 2 chái), 2 tầng, 2
lớp mái (8 mái) theo kiểu chồng diêm. Kết cấu khung gồm 6 bộ vì kiểu 4 hàng
chân với 8 cột cái (đường kính 54cm) và 16 cột quân (đường kính 35cm). Trên các
cấu kiện gỗ được trang trí các đề tài mang đậm phong cách nghệ thuật thời Hậu
Lê. Đề tài rồng là chủ đạo, được trang trí tại các đầu dư với nghệ thuật chạm
bong kênh. Đề tài hoa sen ở diềm tầng mái trên, chạm nổi kết hợp với hình tượng
cúc mãn khai; vân xoắn trên các thân rường và đầu bẩy.
Đây
là công trình kiến trúc bảo lưu đuợc nhiều yếu tố từ thế kỷ XVII. Theo các nhà
nghiên cứu về mỹ thuật kiến trúc thì Tam quan nội kiêm gác chuông mang đậm yếu
tố thuần Việt và là một trong những Tam quan - Gác chuông sớm, đẹp nhất ở Việt
Nam.
Chùa Phật: cách
Tam quan nội một khoảng sân gạch, kết cấu theo kiểu chữ “Công” gồm 3 toà: Tiền
đường 5 gian, Thiêu hương 3 gian, Thượng điện 3 gian mái cong. Chạm khắc với đề
tài chủ đạo là rồng trên các cấu kiện kẻ hiên, xà nách, xà đùi, vì nách Tiền đường,
lân được thể hiện trên nóc mái (vị trí đầu kìm) của tòa Thượng điện, phượng được
thể hiện trên kẻ hiên và vì nách toà Tiền đường. Ngoài ra, trên các cấu kiện gỗ
như đầu kẻ, bẩy, con rường… còn trang trí các đề tài vân xoắn, chữ “thọ”, đao
mác, tứ linh, tứ quý…
Đền Thánh:
cách tường hậu Thượng điện chùa Phật một khoảng sân rộng hơn 10m. Đền cũng kết
cấu theo kiểu chữ “Công”, gồm 3 toà: Tiền đường 5 gian, Trung đường 3 gian và Hậu
cung 3 gian. Với các mảng chạm khắc tinh xảo tập trung trên các mảng đố lụa,
khung bạo, con rường, kẻ, bẩy của từng tòa. Đặc biệt chú ý là 3 bộ cánh cửa gồm
10 cánh ngăn cách giữa tiền đường và trung đường được chạm khắc, thể hiện 10 đề
tài khác nhau. Kỹ thuật chạm gỗ bong kênh ở cả hai mặt tiền 2 gian toà tiền đường
đạt tới trình độ cao. Đề tài chạm khắc ở đây phong phú: rồng, lân, hoa cúc - mặt
trời, phượng, vân xoắn, sừng tê ngọc báu, tứ linh, tứ quý… mang phong cách nghệ
thuật thế kỷ XVII.
Nhà Ký đồ: nằm
sát ngay sau đền Thánh, trước nhà Tổ, nhà oản và nhà bếp. Nhà là nơi để các đồ
lễ và các vật dụng chủ yếu phục vụ cho lễ hội, có mặt bằng hình chữ Nhật,
dài 7,50m, rộng 5,21m, gồm 3 gian.
Hành lang: gồm
hành lang tả và hữu, đăng đối qua trục thần đạo, đối xứng hai bên chùa Phật, đền
Thánh, nhà Ký đồ, mỗi dãy có 38 gian, nối liền từ Tam quan nội kiêm gác chuông,
dọc theo chiều sân, nối với khu nhà Tổ, nhà oản, nhà bếp, tạo thành hệ thống tường
bao bọc các công trình thành tổng thể “nội công, ngoại quốc”. Mỗi dãy hành lang
dài xấp xỉ 86 m, rộng hơn 3m.
Nhà Tổ: nối
vuông góc với hành lang hữu và nhà oản, nhà bếp. Cùng với nhà oản, nhà bếp. Nhà
Tổ có mặt bằng hình chữ Nhật, gồm 3 gian, dài 6,30m, rộng 6,10m. Nền nhà Tổ
chung một cấp với hành lang, lát gạch bát theo mạch chữ Công.
Nhà
oản, nhà bếp: nối liền với nhà Tổ theo chiều ngang, gồm 3 gian, có kích
thước dài 6,25m, rộng 4,15m. Nhà bếp gồm 4 gian, có kích thước dài 8,90m, rộng
4,15m.
Phủ Mẫu: nằm
phía ngoài Tam quan nội kiêm gác chuông, sát cổng phía Tây, được dựng lại vào đầu
thế kỷ XX. Phủ Mẫu hiện nay là sản phẩm của lần trùng tu, tôn tạo chùa Keo vào
năm 2008, 2009, mặt bằng hình chữ Nhật, gồm 5 gian (3 gian 2 chái), có
kích thước dài 10,70m, rộng 6,70m, bằng gỗ lim. Bộ khung được dựng trên 4 hàng
cột (cột cái có đường kính 30cm, cột quân có đường kính 25cm.
Nhà khách: sát
với phủ Mẫu, 5 gian, dài 11,50m, rộng 4,75m, kết cấu đơn giản theo lối tường hồi,
bít đốc.
Nhà trải: nằm
trong khuôn viên sân, vườn, gồm 10 gian, dài 38m, rộng 4,70m, xây theo lối tường
hồi, bít đốc.
2. Chùa Keo ngoài (Đĩnh
Lan tự): ngoài thờ Phật còn thờ Bồ tát Quan âm
Nam Hải, được xây dựng muộn hơn so với chùa Keo trong. Theo Hành Thiện xã
chí thì chùa Keo ngoài được xây dựng từ năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống
nguyên niên (1778). Đến triều Nguyễn, niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832), dân làng
xây dựng gác chuông. Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Phó bảng Đặng Kim Toán - người
làng Hành Thiện, làm Án sát Ninh Bình đã hưng công trùng tu lại chùa với quy mô
lớn. Năm Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái 13 (1901), Tri huyện Nguyễn Ngọc Quỳnh -
người làng Hành Thiện, cùng dân làng dựng thêm hai dãy hành lang. Năm Đinh Mùi,
niên hiệu Duy Tân nguyên niên (1907), quan huyện Nguyễn Đôn Thi hưng công sửa
cây đèn và gác chuông, đến năm Mậu Ngọ, niên hiệu Khải Định 3 (1919), ông lại
hưng công làm mái cúng trước chùa và Nhà thờ Tổ.
Qua
thời gian do thời tiết khắc nghiệt, chiến tranh tàn phá, chùa xuống cấp, từ năm
1990, dân làng Hành Thiện đã nhiều lần tiến hành trùng tu, tôn tạo: trùng tu
Hành lang phía Đông (năm 1990), trùng tu Hành lang phía Tây (năm 1994), trùng
tu Gác chuông, xây cổng, tường và cây đèn (năm 2000), xây kè hồ nước phía trước
chùa (năm 2004)...
Chùa
toạ lạc trên một khuôn viên có diện tích 1 mẫu Bắc Bộ, mặt quay về hướng Đông Bắc,
với kết cấu mặt bằng kiểu “nội công, ngoại quốc”, gồm: Tam quan, Tả/hữu hành
lang, Chùa chính, gác chuông và nhà Tổ, trong đó, công trình có giá trị kiến
trúc nghệ thuật cao là Chùa chính và gác chuông.
Chùa chính: mặt
bằng kiểu chữ Công, gồm: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện. Tòa Tiền đường
5 gian (3 gian 2 chái) dài 10,30m, rộng 3,80m. Bộ khung bằng gỗ lim kiểu 4 hàng
chân cột, mỗi vì gồm 2 cột cái và 2 cột quân. Bao quanh công trình kiến trúc là
hệ thống ván bưng, đố lụa bằng gỗ lim.
Nối
tiếp với Tiền đường qua hệ thống cửa đến hai gian Thiêu hương, dài 10m, rộng
3,90m. Đây là hạng mục kiến trúc được liên kết theo dạng ống muống để nối Tiền
đường với Thượng điện. Bộ khung thiêu hương có 4 hàng chân cột với các bộ vì kiểu
chồng rường. Nối với Thiêu hương là Thượng điện, dài 6m, rộng 4m, chia thành 3
gian (1 gian 2 chái), kiến trúc tương tự như tòa Tiền đường.
Gác chuông:
nằm về phía sau Thượng điện 1,60m, dựng trên nền đất cao hình chữ Nhật với
kích thước 6,70 m, rộng 5m, được làm bằng gỗ lim, kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái.
Phần chịu lực chính của công trình đặt vào 2 cột cái có kích thước cao 3,90m,
đường kính 30cm, xung quanh có 10 cột quân, đường kính 20cm.
Trang
trí tập trung vào các vị trí ở phía trên các khung đố lụa của vách thuận, cùng
các cấu kiện: ngưỡng địa, ngưỡng trung, ngưỡng bát, ván bưng, đố của hệ thống cửa
mặt ngoài toà tiền đường, thể hiện sinh động các đề tài: mặt trời, rồng, đao
mác... mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVIII.
Ngoài
giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan, khu di tích chùa Keo hiện
còn lưu giữ được nhiều hiện vật thuộc các chất liệu như: gỗ, giấy, vật đá, gốm
sứ, đồng… Trong số đó, có nhiều hiện vật mang giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hoá, khoa học và thẩm mỹ của nhiều giai đoạn khác, như: hệ thống tượng pháp,
bia ký, sắc phong, nhang án, kiệu, chuông, khánh, hoành phi, câu đối…
Khu
di tích chùa Keo Hành Thiện là một tổng thể các công trình kiến trúc có quy mô
lớn, được xây dựng đăng đối, mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, thế kỷ
XVII - XVIII. Sự tồn tại của chùa Keo góp phần minh chứng cho lịch sử hình
thành và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam. Chùa Keo có giá trị kiến
trúc nghệ thuật, trang trí điêu khắc cao, thể hiện bàn tay lao động cần cù và
khối óc sáng tạo của những công trình sư và nghệ nhân dân gian, góp phần quan
trọng vào việc nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Khu
di tích chùa Keo Hành Thiên còn lưu giữ được nhiều giá trị di sản văn hoá phi vật
thể quý giá thể hiện qua hệ thống thác bản Hán Nôm (bia ký, sắc phong, thần
tích, câu đối, đại tự…), Lễ hội truyền thống, những truyền thuyết về Đức Thánh
Dương Không Lộ… Đây là những nguồn tư liệu phong phú, hấp dẫn và quý báu giúp
các nhà nghiên cứu khoa học lý giải và nhận diện giá trị to lớn của các di tích
này đối với hệ thống di sản văn hoá của dân tộc. Hàng năm, tại chùa Keo Hành
Thiện diễn ra nhiều ngày lễ liên quan đến Phật, Đức Thánh
tổ, các vị thần làng, hậu thần được thờ phụng tại đây, trong đó có 2 kỳ lễ trọng
diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu. Lễ hội mùa Xuân được tổ chức vào 2 dịp: tháng
Giêng đối với chùa Keo trong và tháng Hai đối với Chùa Keo ngoài, với các nghi
thức: dâng hương, rước kiệu, yến lão và trò chơi thổi cơm thi… Lễ hội mùa Thu
được tổ chức vào trung tuần tháng Chín Âm lịch, đây là kỳ lễ hội lớn nhất trong
năm để kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh tổ Dương Không Lộ. Tại lễ hội diễn ra
nhiều nghi thức và trò chơi dân gian đặc sắc như: phụng nghinh, bơi trải, phục
miều y, dựng phướn, rước đèn, Thánh đản, múa rối, chèo cạn, cờ tướng, cầu đu,
chọi gà, làm bánh dầy…
Với
giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo Hành Thiện, gồm
Chùa Keo trong và Chùa Keo ngoài (huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) được Thủ tướng
Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 2499/QĐ-TTg
ngày 22/12/2016./.
Nguồn: Khắc Đoài (Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản
văn hóa)