Đền An Cư xã Xuân Vinh,
huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định là di tích được nhân dân địa phương xây dựng để
ghi dấu công lao khai hoang lấn biển do vị thủy tổ Phúc Diễn khởi xướng vào những
năm cuối thế kỷ XIV.
Theo cuốn thần phả hiện
lưu giữ tại di tích thì vị thủy tổ Phúc Diễn thuộc dòng dõi Vũ Hồn quê gốc ở Mộ
Trạch, tỉnh Hải Dương. Ông là con trai cụ Phúc Điền, người có công khai sáng ra
mảnh đất Bình Cư nay là xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường. Thủy tổ Phúc Diễn là
người thuộc dòng dõi trâm anh được học hành lại có trí thông minh hơn người.
Ông nhận thấy mảnh đất Bình Cư khó có thể làm ăn khá giả nên cần phải khai phá
xuống vùng biển phía nam. Trong nhiều năm liền, dưới sự chỉ đạo của thủy tổ
Phúc Diễn cùng với sự cố gắng của nhân dân nên đã khai khẩn được một vùng đất rộng
lớn. Dân làng đặt tên cho vùng đất mới là An Cư với hàm ý ăn ở ổn định. Công
lao của thủy tổ Phúc Diễn đối với nhân dân nơi đây vô cùng to lớn, bởi vậy sau
khi mất ông được suy tôn là "Khai cơ tổ" ( ông tổ mở mang miền đất mới).
Nhân dân thờ phụng ông như một vị thần ở trong đền. Hiện nay tại đền còn lưu giữ
được đôi câu đối ghi lại công trạng của ông:
"Linh
địa khởi lâu đài, lễ nhạc y quan kim cổ thịnh
An
Cư hưng miếu vũ thanh danh phong vật địa nhân long ".
(Dựng lâu đài ở đất
linh thiêng, lễ nhạc áo mũ xưa nay đều hưng thịnh.
Chấn hưng miếu vũ tại An Cư, thanh danh phong vật, đất người đều phồn thịnh).
Đền An Cư hiện nay được
làm quay về hướng đông nam gồm nhiều hạng mục xây dựng đăng đối. Trước đền là hệ
thống nghi môn tạo thành ba cổng ra vào. Cổng giữa tạo dáng bởi hai đồng trụ
cao trên 7 mét, hai cổng bên xây đối xứng kiểu chồng diêm tám mái lợp giả ngói ống.
Công trình chính của đền
xây thành ba lớp tạo thành mặt bằng hình chữ tam bao gồm: tiền đường, trung đường
và hậu cung. Tòa tiền đường có 5 gian cao rộng, tất cả các cấu kiện gồm: xà, vì
kèo, câu đầu đều làm bằng gỗ lim. Nâng đỡ bộ mái là tường xây và hệ thống cột
xây gạch chắc chắn. Tại gian chính giữa tiền đường đắp nổi bức cuốn thư trên viết
ba chữ Hán "Khai cơ tổ"(ông tổ mở mang miền đất mới). Tiếp đến là 5
gian trung đường được xây liền với tiền đường. Bộ mái trung đường làm kiểu cuốn
vòm gắn ngói nam. Gian giữa trung đường treo bức cửa võng sơn son thếp vàng chạm
đề tài long, ly, quy, phượng cùng hoa lá mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Cung cấm đền An Cư thiết kế kiểu chồng diêm tám mái có ba gian. Đây là nơi thờ
tự trang nghiêm của di tích. Ngay tại bệ thờ gian giữa của đền đặt ngai cùng
bài vị thờ thủy tổ Phúc Diễn và hai vị thần: Nam Hải Đại vương, Linh Lang Đại
vương.
Đền An Cư - xã Xuân Vinh - Nguồn ảnh: Nam Định online
Bên cạnh các giá trị
tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc, hàng năm vào các ngày 6, 7 tháng giêng nhân
dân thôn An Cư lại tưng bừng tổ chức lễ hội. Để tỏ lòng biết ơn đối với các liệt
tổ khai sáng và khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của quê hương, hội
làng An Cư ngoài các nghi thức tế lễ, rước kiệu, làng còn tổ chức nhiều trò
chơi như: đấu vật, bơi chải, cờ tướng, tổ tôm điếm... Đặc biệt trong hội làng
An Cư trò chơi đấu vật và bơi chải thì không năm nào thiếu. Đây là hình thức để
dân làng rèn luyện sức khỏe, hăng say lao động sản xuất. Từ xa xưa sới vật An
Cư đã rất nổi tiếng, vào ngày hội làng có nhiều đô vật từ nhiều địa phương về
đăng ký tham gia thi đấu như: Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hà Tây, Hải Phòng... Do đó hội
làng An Cư luôn luôn náo nhiệt mang tinh thần thượng võ của một làng quê ven biển.
Đến với xới vật An Cư, các đô vật ở mọi miền đất nước đều biết đến miếng
"đánh gồng". Đó là miếng võ hiểm duy chỉ có An Cư mới áp dụng thành
công. Trước đó vào thời Nguyễn, An Cư có đô vật Kình đã dùng miếng đánh gồng để
thi đấu ở Thanh Hóa và hạ đo ván nhiều đối thủ, giành được chức quán quân khiến
cho các đô vật khác phải nể phục. Hiện nay tinh thần thượng võ trong dân làng vẫn
luôn được địa phương duy trì và phát triển.

Lễ hội truyền thống tại
đền An Cư là một nét sinh hoạt văn hóa rất thiết thực, có ý nghĩa giáo dục truyền
thống, động viên quần chúng nhân dân hăng say lao động sản xuất. Chắc chắn lễ hội
truyền thống tại đền An Cư sẽ lôi cuốn được sự quan tâm của đông đảo nhân dân
xa gần góp phần phát huy tốt giá trị của một di tích đã được Nhà nước công nhận./.
Theo: Di tích lịch sử - Văn hóa tỉnh Nam Định