Xuân Trường là huyện đồng bằng của tỉnh Nam Định, có diện tích tự nhiên trên 112 km2, dân số trên 19 vạn người, chiếm 6,8% về diện tích tự nhiên và 9,26% về dân số so với toàn tỉnh. Mật độ dân số 1696 người/km2.
Tọa độ địa lý: Kinh độ đông: 106017’ - 108025’; Vĩ độ bắc: 2005’ - 20024’.
Vị
trí địa lý: Phía Bắc giáp sông Hồng (bên kia sông là huyện Vũ Thư tỉnh
Thái Bình); Phía Nam giáp huyện Hải Hậu; Phía Đông giáp sông Sò (phía
bên kia sông là huyện Giao Thuỷ): Phía Tây giáp sông Ninh Cơ (phía bên
kia sông là huyện Trực Ninh).
Nằm
trên các trục giao thông quan trọng của tỉnh, quốc lộ 21B đi qua (dài
3,2 km) và tỉnh lộ 489 (dài 9,5 km), Đường 51A qua phà Sa Cao sang Thái
Hạc, Vũ Thư, Thái Bình (dài 12,5km) nối liền Xuân Trường với tỉnh Thái
Bình và vùng Đông Bắc của Tổ quốc, là huyện không xa với thành phố Nam
Định, một trung tâm kinh tế, văn hoá, có nhiều di tích lịch sử và danh
lam thắng cảnh đẹp của tỉnh Nam Định, Xuân Trường là đầu mối giao thông
về đường bộ, đường thuỷ hội tụ nhiều điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội thuận lợi cho phát triển nền kinh tế hàng hóa, tạo điều kiện gắn
Xuân Trường với các huyện trong tỉnh và mở rộng mối giao lưu kinh tế
liên vùng trong tỉnh, vùng Đồng bằng Sông Hồng và cả nước.
ĐỊA hình và tài nguyên đẤT
Xuân
Trường được bao bọc bởi ba con sông lớn là sông Hồng, sông Ninh Cơ và
sông Sò. Địa hình bằng phẳng, cốt đất từ 0,3 - 0,9m chia thành 2 vùng là
vùng đất bãi và vùng trong đê. Nhìn chung địa hình Xuân Trường tương
đối bằng phẳng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là trồng lúa
đặc sản, trồng cây công nghiệp và sản xuất gạch ngói, xây dựng.

Mùa lúa mới trên đồng đất Xuân Trường
Xuân
Trường thuộc vùng đất phù sa mới của vùng đồng bằng sông Hồng (đất phù
sa được bồi không gley hoặc gley yếu) được xếp vào hệ tầng Thái bình
thuộc hệ thống Hô-Lô-Xen muộn (thời kỳ biển rút khỏi châu thổ sau khi đã
lấp đầy trầm tích), chúng có dạng địa hình chung là bãi bồi thấp thuộc
địa hình tích tụ, nhóm các bề mặt nằm ngang.
Đất phù sa được bồi ven sông:
diện tích l000 ha, phân bố thành dải theo các triền sông, dải đất này
thường ngập nước vào mùa lũ, có khả năng trồng màu, cây công nghiệp vào
mùa khô.
Đất phù sa được bồi tụ, trung bình, ít chua: diện tích khoảng 7000 ha phân bố hầu hết ở các xã trên địa bàn huyện, có khả năng nuôi trồng thuỷ sản vùng nước lợ.
Đất nhiễm mặn do ảnh hưởng của mạch ngầm có ở Xuân Vinh, Xuân Hòa, Xuân Trung diện tích khoảng 500 ha, có khả năng thâm canh lúa nước.
Đất canh tác
của huyện thuộc hệ phù sa trẻ sông Hồng tương đối ổn định và được bù
đắp phù sa thường xuyên cho nên giàu dinh dưỡng và tầng canh tác dày.
Thành phần cơ giới của đất chủ yếu là đất thịt nặng rất thuận lợi cho
việc canh tác nông nghiệp nhất là cây lúa và cây ngắn ngày hàng năm.
Tài nguyên khí HẬU
Huyện Xuân Trường nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 290C, tháng thấp nhất có nhiệt độ khoảng 6,80C, tháng cao nhất khoảng 39,50C. Tổng tích ôn từ 85500C-86500C; Cho phép gieo trồng 2-3 vụ cây ngắn hạn trong năm.
Tổng
số giờ nắng trong năm dao động khoảng từ 1600 - 1700 giờ vụ hè thu có
giờ nắng cao nhất chiếm khoảng 70% số giờ nắng trong năm.
Năm
mưa cao nhất 2754mm; năm mưa thấp nhất chỉ đạt 978mm. Lượng mưa trung
bình hàng năm từ 1750 - 1800mm được chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt
đầu từ tháng 5 đến tháng 10; mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau.
Độ ẩm độ không khí bình quân năm khoảng 80 - 85%; độ ẩm cao tuyệt đối 93% và độ ẩm thấp tuyệt đối là 34%.
Hướng gió chủ yếu là hướng Đông - Bắc, Đông - Nam với tốc độ bình quân 3-5m/s.
Nằm trong vành đai khí hậu của khu vực Vịnh Bắc Bộ nên thường xảy ra bão lớn gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống.
Tài nguyên nƯỚC
Nguồn nước mặt:
Xuân Trường là huyện có mạng lưới sông bao bọc với 3 con sông lớn và
hàng trăm kilômét (km) kênh mương khác và hệ thống các ao hồ trong
huyện. Tổng lượng nước hàng năm trên địa bàn huyện Xuân Trường rất lớn,
song phân bố khá đều trong năm nên rất thuận lợi cho xây dựng các công
trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư. Nước lợ
tập trung chủ yếu ở hạ lưu sông Sò có thể khai thác để nuôi trồng thuỷ
sản.

Sông Ninh Cơ
Nước ngầm:
Theo tài liệu điều tra của Đoàn địa chất vùng đồng bằng Sông Hồng thì
tỉnh Nam Định nói chung và huyện Xuân Trường nói riêng có tổng lượng
nước ngầm lớn, mức độ nông sâu và chất lượng tốt cũng biến đổi khác nhau
theo các tầng sâu, có thể khai thác lớn phục vụ cho sản xuất và đời
sống.
Tài nguyên khoáng sẢN
Qua
tài liệu thu thập được có thể đánh giá khoáng sản trên địa bàn huyện
Xuân Trường nghèo về chủng loại và ít về số lượng, chỉ có một số khoáng
sản phi kim loại có thể khai thác phục vụ cho phát triển công nghiệp vật
liệu xây dựng ở địa phương như:
Đất
làm gạch ngói nằm rải rác khu vực bãi ven sông Hồng và sông Ninh Cơ,
trữ lượng đạt hàng chục triệu tấn có thể khai thác nhiều năm để sản xuất
vật liệu xây dựng, nhất là gạch ngói. Các mỏ cát xây dựng tập trung ven
sông Hồng và sông Ninh Cơ với chiều dài hơn 20km được bồi tụ thường
xuyên, đây là nguồn nguyên vật liệu lớn làm vật liệu xây dựng. Hàng năm
cát xây dựng khai thác khoảng 100 ngàn m3/năm. Nguồn đất làm
gạch ngói tập trung chủ yếu ở Xuân Hồng, Xuân Ninh, Xuân Châu... Riêng ở
Sa Cao (Xuân Châu) trữ lượng khoảng 5 - 10 triệu tấn.
Khoáng
sản cháy: Dầu mỏ và khí đốt đã được thăm dò có ở khu vực xã Xuân Hồng,
Xuân Thuỷ tuy nhiên trữ lượng ít. Khả năng đầu tư khai thác hiệu quả
thấp.
Tài nguyên du lỊCH
Xuân
Trường có nhiều di tích lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng có thể
phục vụ cho việc tham quan du lịch và nghiên cứu lịch sử, văn hoá như:
+ Quần thể lưu niệm Cố Tổng Bí thư Trường Chinh tại Thị trấn Xuân Trường và xã Xuân Hồng.
+
Trên địa bàn huyện hiện có 29 di tích lịch sử, văn hóa được nhà nước
công nhận và xếp hạng, trong đó nổi bật là khu di tích lịch sử văn hoá
chùa Keo tại làng Hành Thiện xã Xuân Hồng hàng năm tại đây mở lễ hội với
nhiều hoạt động văn hoá thể thao phong phú mang đậm nét bản sắc văn hoá
dân tộc vùng châu thổ sông Hồng và thu hút lượng khách lớn về vãn cảnh
chùa.

Ngôi nhà trong Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Trường Chinh
+
Khu nhà thờ Bùi Chu xã Xuân Ngọc và Tiểu Vương cung Thánh đường Phú
Nhai ở xã Xuân Phương là trung tâm đạo thiên chúa giáo lớn của cả nước,
với các kiểu kiến trúc độc đáo là điều kiện thuận lợi để hình thành các
điểm tham quan du lịch hấp dẫn.
Dân sỐ và nguỒN lao đỘNG
Dân
số: Năm 2010 dân số của huyện là trên 19 vạn người với khoảng gần 45
ngàn hộ. Tốc độ tăng dân số bình quân khoảng 1,09%/ năm ở thời kỳ
2002-2007. Mật độ dân số trung bình toàn huyện là 1.696 người/km2, cao hơn mật độ dân số chung toàn tỉnh.
Nguồn
lao động: Cho đến nay dân số trong độ tuổi lao động khoảng 88,5 ngàn
người, chiếm 50% dân số toàn huyện. Lao động làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân là hơn 94 ngàn người. Nguồn lao động trẻ, có trình độ
văn hoá, cần cù trong lao động, hiếu học, nhiều lao động có tay nghề
cao, nếu thường xuyên bồi dưỡng đào tạo và sử dụng hợp lý sẽ là một
trong những yếu tố quan trọng để phát triển nguồn nhân lực của huyện
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy vậy, lao động nông
nghiệp còn chiếm một tỷ trọng lớn, khoảng 72%. Tính bình quân trên 1ha
canh tác có 8,13 lao động - đây là một vấn đề lớn, bức xúc về giải quyết
việc làm, đòi hỏi phải có sự quan tâm của tất cả các ngành trên địa bàn
và cần phải đầu tư để phát triển ngành công nghiệp - TTCN và các ngành
nghề khác để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn - nhằm nâng cao
đời sống cho nông thôn nói riêng và toàn huyện nói chung.
LỢI THẾ phát triỂN
cỦA Xuân TrƯỜNG
Nằm
trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Bắc bộ, có hệ
thống đường sông và đường bộ thuận lợi nên Xuân Trường có điều kiện mở
rộng giao lưu và phát triển kinh tế liên vùng, liên huyện với bên ngoài.
Mặt
khác, điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, khí hậu thời tiết ôn hoà, nắng
mưa điều hoà quanh năm, là điều kiện thuận lợi để Xuân Trường phát triển
nhiều loại cây trồng nhiệt đới, vật nuôi đa dạng đạt năng suất và chất
lượng cao thích ứng với thị trường trong và ngoài nước.
Nhân
dân trong huyện có truyền thống cách mạng, cần cù trong lao động, có
truyền thống hiếu học và tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ nhau
trong cuộc sống. Lực lượng lao động dồi dào, trẻ khoẻ, một bộ phận lớn
lao động có trình độ văn hóa sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và hợp tác kinh tế quốc tế.
Kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có
xếp vào loại khá của tỉnh Nam Định như mạng lưới giao thông, hệ thống
cấp điện, cấp thoát nước mạng lưới thông tin liên lạc, giáo dục, y tế...
Đây sẽ là những điều kiện thuận lợi tạo đà cho Xuân Trường phát triển
nhanh hơn nữa cả về kinh tế - xã hội, môi trường và đảm bảo an ninh quốc
phòng trong những năm tới.
Có
nhiều làng nghề truyền thống, trong đó có nhiều ngành nghề phát triển
với tốc độ nhanh, góp phần tăng thu nhập và giải quyết nhiều việc làm
cho người lao động, nhất là khu vực nông thôn. Hiện Xuân Trường với
những làng nghề truyền thống có uy tín như: Làng Cơ khí Xuân Tiến, làng
trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ Xuân Hồng; Vận tải thủy Xuân Trung; Chế biến
lâm sản Xuân Bắc; Sản xuất sản phẩm từ nguyên liệu cói Xuân Ninh; Sản
xuất gạo tám thơm Xuân Đài.
Cùng
với những làng nghề truyền thống, hiện nay trên địa bàn huyện đã đầu tư
xây dựng các cụm công nghiệp tập trung đó là: Cụm CN trung tâm huyện
20ha; Cụm CN Cơ khí Xuân Tiến 15ha; Cụm CN sửa chữa đóng mới tàu thủy
vùng bãi Xuân Ninh, thị trấn Xuân Trường 16ha; Cụm CN Xuân Châu 70ha;
Cụm CN sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa đóng mới tàu thủy Xuân Tân
50ha.