Ngày
9 - 2 - 2007, kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Trường Chinh. Đây là
một mốc thời gian quan trọng, trăm năm mới có một lần. Quê hương Nam
Định cùng với cả nước đã long trọng tổ chức ngày tưởng niệm đồng chí,
đánh giá đúng công lao của đồng chí đối với Tổ quốc và đồng bào. Là học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh đã đóng góp
to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước. Đồng chí
là người mở đầu cho sự nghiệp đổi mới của đất nước ta ngày nay.
Cuộc
đời của đồng chí, những tư tưởng và hành động sáng ngời của đồng chí
vẫn tiếp tục là những bài học quý giá cho toàn dân ta cũng như cho quê
hương Nam Định hôm nay và ngày mai.
Sự
thành công của quê hương trên mọi lĩnh vực kinh tế và văn hoá gắn liền
với những tư tưởng cách mạng, những quan điểm lý luận sáng suốt, sắc bén
mà đồng chí đã cống hiến cho Đảng ta và nhân dân ta. Tấm gương của đồng
chí, một trí thức chân chính trong quá trình học tập, tự rèn luyện và
tư duy sáng tạo trong mọi hoạt động là sự cổ vũ to lớn đối với toàn thể
nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ ngày nay.
Đứng
về phía quê hương, lãnh đạo tỉnh cùng đông đảo cán bộ và trí thức Nam
Định nhận rõ sự cấp thiết phải gấp rút tiến hành việc nghiên cứu, giới
thiệu và học hỏi đồng chí Trường Chinh về mọi mặt.
Những
ngày này, nhân dân Nam Định vừa chia sẻ tinh thần ngưỡng mộ của toàn
quốc đối với đồng chí Trường Chinh, vừa dành những tình cảm sâu sắc và
niềm tự hào đối với quê hương nơi đồng chí Trường Chinh đã sinh ra, lớn
lên để trở thành người con ưu tú của dân tộc, xứng đáng với truyền thống
anh hùng và văn hiến của Việt Nam, xứng đáng với những phẩm chất đặc
thù của quê hương Nam Định.
Quê HƯƠNG
VỚI ĐỒNG chí TRƯỜNG CHiNH
Nói
tới truyền thống Nam Định trước hết là nói tới Hào khí Đông A. Đồng chí
Trường Chinh chính là người con của Hào khí Đông A ấy.
Hào
khí Đông A là danh xưng phản ánh lòng yêu nước mãnh liệt, khí phách
kiên cường và tinh thần sáng tạo của sự nghiệp các vua Trần, những người
con của quê hương Nam Định đã cùng các tướng lĩnh kiệt xuất và nhân dân
Việt Nam anh hùng ba lần đánh tan quân Mông - Nguyên và cùng nhau xây
dựng một đất nước hùng cường, bền vững.
Truyền
thống Nam Định không chỉ bắt nguồn từ Hào khí Đông A. Di tích lịch sử
rải ra khắp nơi trên quê hương Nam Định như còn phảng phất hình bóng của
ông cha ngay từ những ngày đầu dựng nước. Thần phả tại các đền miếu,
truyện dã sử trong dân gian còn ghi nhận những truyền thống tốt đẹp của
Nam Định từ thời xa xưa. Những di sản còn lưu lại tại nhiều làng thuộc
Nam Định như vẫn thường xuyên nhắc nhở sự nghiệp của Hai Bà Trưng, của
Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục... Các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm qua
các triều đại Lý, Trần, Lê trên mảnh đất Nam Định này vẫn luôn luôn gợi
lên những suy nghĩ lớn lao và ý chí mãnh liệt của bao thế hệ thanh niên
kế tiếp nhau trong lịch sử.
Hào
khí Đông A tiêu biểu cho thời kỳ rực rỡ nhất trong sự nghiệp anh hùng
của quê hương Nam Định với những tên tuổi bất diệt của các vua: Thái
Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, của những nhân vật kiệt xuất như: Trần Thủ
Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật.
Cùng với truyền thống anh hùng là truyền thống văn hiến của Nam Định.
Về
Phật giáo, đó là những vị thiền sư tiêu biểu cho Phật học Việt Nam như
Dương Không Lộ (1016 - l094) và Lý Giác Hải (1022 - ?)...
Về
Nho giáo phải kể đến một thiếu niên thần đồng là Nguyễn Hiền (1235 -
1255), mới 13 tuổi đã đỗ trạng nguyên, đứng trên hai người cùng khoa nổi
tiếng là Bảng nhãn Lê Văn Hưu và Thám hoa Đặng Ma La. Ông mất khi mới
20 tuổi, sau 7 năm giữ chức Ngự sử đài kiêm Đông các đại học sĩ. Ông đã
có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Ông là một tấm gương có một
không hai về học giỏi đỗ cao ngay thời kỳ còn niên thiếu.
Tiêu
biểu cho truyền thống văn hiến của Nam Định và cũng cho nền văn hiến
của Việt Nam còn là những đại trí thức như: Trạng nguyên Đào Sư Tích,
Trạng nguyên Lương Thế Vinh và Tam nguyên Trần Bích San.
Đặc
biệt là Lương Thế Vinh (1441 - 1496), quê xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản.
Ông cùng với Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận là những ngôi sao sáng dưới thời
Lê Thánh Tông. Ông là người uyên bác cả Nho học và Phật học, lại là
người xây dựng ra ngành toán học Việt Nam.
Tiếp
nối tinh thần hiếu học nói trên, đất Nam Định trong mọi thời kỳ đều sản
sinh ra những nhà văn hoá lớn làm vẻ vang cho đất nước và cho quê
hương.
Từ
ngày thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Nam Định lại nổi lên với rất
nhiều nhà yêu nước vừa anh hùng, vừa văn hiến từ thế hệ này qua thế hệ
khác.
Trước
hết nói về tấm gương của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Ngay khi quân Pháp
đánh chiếm Đà Nẵng (1858) và đánh vào Gia Định (1859), Phạm Văn Nghị đã
dâng sớ lên vua Tự Đức bày tỏ nguyện vọng quyết tâm kháng chiến của sĩ
dân Nam Định và đề nghị cho phép ông lập một đội nghĩa binh vào chiến
trường đánh giặc. Đội nghĩa binh của Phạm Văn Nghị gồm tất cả 365 người,
ngày 22 - 2 - 1860 xuất phát và ngày 21 - 3 - 1860 tới Huế. Lúc đó quân
Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng nhưng Phạm Văn Nghị cùng nghĩa quân vẫn xin
triều đình cho vào Nam đánh giặc. Tuy nguyện vọng chính đáng này không
được vua Tự Đức chấp thuận nhưng tấm lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm
của Phạm Văn Nghị và nghĩa quân đã gây một tiếng vang rất lớn trong
toàn quốc và nuôi dưỡng một tinh thần chiến đấu bất khuất của nhân dân
Nam Định.
Nhân
dân Nam Định ngày càng thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất nhất là
từ khi giặc Pháp kéo quân đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh. Dưới sự lãnh
đạo của Phạm Văn Nghị cùng một số quan chức và sĩ phu yêu nước, nhân dân
Nam Định đã kiên cường chống Pháp qua hai lần chúng đánh thành Nam Định
và tiếp tục chiến đấu cho đến ngày không còn một tên xâm lược nào trên
đất nước ta.
Trường
Chinh ra đời và lớn lên trên mảnh đất Nam Định khi truyền thống yêu
nước, trí tuệ và anh dũng từ bao đời vẫn còn rạo rực trong lòng mỗi con
người của quê hương. Ông không chỉ là người con của Nam Định mà còn là
người con của một dòng họ yêu nước và hiếu học, của một làng nổi tiếng
là làng văn hiến. Đó là dòng họ Đặng Xuân ở làng Hành Thiện.
Trường
Chinh lớn lên trong lúc thế hệ cha anh trong làng, trong họ đã kế tiếp
nhau đứng dậy cứu nước qua các phong trào Cần Vương, Đông Du và Đông
Kinh Nghĩa Thục. Bao người đã bị bắt bớ, giam cầm. Bao người như Đặng
Đoàn Bằng, Đặng Tử Mẫn, những cánh tay đắc lực của cụ Phan Bội Châu đã
chiến đấu đến phút cuối cùng và bỏ mình nơi đất khách. Bao người ở ngay
trong gia đình Trường Chinh đã nêu tấm gương học giỏi, yêu nước nếu
không lên đường chiến đấu thì cũng ở nhà dạy học, làm thuốc và nhất là
viết sách.
Ông
nội của Trường Chinh là Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng, làm Tuần phủ Hải Dương,
rồi Đốc học tỉnh Nam Định. Cụ đã tiếp tục tinh thần của những người
tiền nhiệm là Đốc học Phạm Quang Nghị giáo dục cho các thế hệ học trò
của mình tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh giành lại non sông đất
nước. Cụ Đặng Xuân Bảng còn là một nhà nghiên cứu. Cụ viết rất nhiều
sách về lịch sử, về địa chí các tỉnh, về lời nói, việc làm của cổ nhân,
về giáo dục gia đình và một số thơ văn tập hợp trong Thiện đình thi.
Người
cha sinh ra Trường Chinh là cụ Đặng Xuân Viện, cũng là một nhà Nho uyên
bác, làm nghề dạy học và viết sách. Tác phẩm nghiên cứu của cụ, bộ
“Hành Thiện xã chí” gồm bốn tập là một công trình nghiên cứu công phu và
khoa học về mọi mặt của làng Hành Thiện. Tiếc rằng bộ sách này đã bị
thất lạc, chỉ còn lại một ít trang được người sau này viết lại và bổ
sung nhưng sách này còn quá sơ lược nên không thể so với nguyên bản của
tác giả Đặng Xuân Viện.
Trường
Chinh ngay từ tuổi ấu thơ đã sống trong không khí văn hoá của gia đình.
Ông đã ít nhiều làm quen với Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc những thơ Đường,
thơ Tống và qua ông, cha của mình tiếp xúc với văn học và sử học nước
nhà. Tiếp thu truyền thống của quê hương và gia đình là tinh thần yêu
nước, là cuộc sống trí tuệ và liêm khiết, Trường Chinh đã không dừng lại
ở đó. Không lặp lại con đường thất bại của cha anh, ông đã quyết định
đi theo một hướng khác.
Nho
giáo vẫn là đạo lý, là nếp sống từ nhiều đời của gia đình, nhưng Trường
Chinh đã nhìn rõ sự bất lực của Nho giáo và không thể chấp nhận hệ tư
tưởng chính thống ấy của chế độ phong kiến mà ông thường xuyên phê phán
và kiên quyết đánh đổ. Ông lên án nội dung cơ bản của Nho giáo nhưng ông
giữ lại những nhân tố tích cực của Nho giáo như tinh thần hiếu học, như
thái độ trọng nghĩa khinh tài, như cuộc sống thanh đạm và liêm khiết,
coi đó là công cụ tinh thần đã được Việt Nam hoá để chuyển tải và duy
trì những truyền thống của chính bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Nhân dân xã Xuân Hồng vui mừng đón đ/c Trường Chinh
về thăm quê hương năm 1981
Chúng
ta hiểu vì sao con người bài phong một cách triệt để ấy lại có một tác
phong ung dung tự tại như một nhà Nho, lại thận trọng trong lời nói,
việc làm, trong mọi cử chỉ và trong mọi ứng xử hằng ngày. Trường Chinh
cũng như Hồ Chí Minh đã kiên quyết gạt bỏ nội dung bảo vệ trật tự phong
kiến của Nho giáo nhưng giữ lại những điều hữu ích của Nho giáo như ý
thức trách nhiệm về tu dưỡng đạo đức, như cử chỉ văn hóa trong giao tiếp
và ứng xử.
Theo
học ở trường tân học từ phổ thông đến cao đẳng, Trường Chinh đã có điều
kiện thuận lợi để tiếp thu những thành tựu của văn hoá Pháp, mở rộng
tầm nhìn ra thế giới, không ngừng nâng cao kiến thức của mình, trở thành
một học giả uyên thâm, gạn lọc cho mình những tinh hoa văn hoá của cả
phương Đông và phương Tây, ở cả quá khứ và hiện tại. Chính trong dịp
này, ông đã tìm hiểu Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Trung Hoa 1911 và
Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Ông đã hăng say tham gia các phong trào
yêu nước, đòi thả Phan Bội Châu, bãi khoá để tang Phan Chu Trinh.
Nhưng
phải nói rằng tinh thần yêu nước và niềm khát khao hiểu biết của ông
cũng sẽ là vô ích nếu như ông không đủ nhạy bén để nắm bắt được điều kỳ
diệu đã đến với cách mạng Việt Nam: đó là sự gặp gỡ giữa phong trào yêu
nước với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ông đã tham gia Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên và đi theo hẳn “Đường Kách Mệnh” của Nguyễn Ái Quốc.
Từ
bước ngoặt lớn nhất này trong cuộc đời của Trường Chinh, chủ nghĩa Mác -
Lênin được vận dụng sáng tạo đã luôn luôn là ánh sáng soi đường cho mọi
suy nghĩ và hành động. Đồng chí trở thành một người cộng sản sắc sảo và
kiên cường ở cả mặt chính trị và văn hoá, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Trung ương Đảng chỉ đạo mọi thắng lợi của nhân dân ta.
ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH
VỚI QUÊ HƯƠNG
Từ
khi lên Hà Nội học và dấn thân vào con đường cách mạng đầy thử thách,
nguy hiểm, bị kẻ thù truy lùng ráo riết, đồng chí rất ít khi có dịp được
trở về thăm quê hương, gia đình. Nhưng những kỷ niệm không bao giờ quên
từ thời thơ ấu đã ghi sâu trong lòng ông những tình cảm sâu sắc nhất.
Sau
khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trên cương vị lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước, đồng chí Trường Chinh đã nhiều lần về thăm quê hương, tìm
hiểu cuộc sống của nhân dân, nhắc nhở và động viên Đảng bộ Nam Định
những việc làm cần thiết.
Đ/c Trường Chinh chụp ảnh lưu niệm với cán bộ lãnh đạo
huyện Xuân Thủy, năm 1981
Đồng
chí đã dành nhiều thời gian để gặp gỡ, tiếp xúc với bà con hàng xóm,
với họ hàng thân quen, với cán bộ và xã viên hợp tác xã. Đồng chí lắng
nghe ý kiến của mọi người và giải thích thêm về những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Đồng chí ân cần thăm hỏi sức khoẻ và đời sống
của mọi người dân, khen ngợi mọi thành tích chiến đấu, lao động và học
tập với tất cả tình cảm yêu thương của người con đi xa lâu ngày trở về.
Đồng chí nói: Vì bận công việc của Đảng nên tôi không về thăm được bà
con. Tuy ở xa nhưng trái tim tôi lúc nào cũng hướng về quê hương và bà
con quê nhà.
Mỗi
lần đồng chí về thăm quê hương là một lần quê hương lại nhận thêm những
tình cảm nồng hậu như nhận thêm sức mạnh mới để hoàn thành nhiệm vụ.
Đồng chí thường kịp thời đề cập tới những vấn đề quan trọng có ý nghĩa
quyết định đối với từng hoạt động của địa phương.
Trước hết đồng chí nhắc nhở lãnh đạo tỉnh vấn đề xây dựng Đảng, đòi hỏi toàn thể cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao ý thức chính trị, trình độ hiểu biết và phương pháp làm việc.
Tại
Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Hà (2/1972), trước những khó khăn chung của cả
nước và của Nam Định, đồng chí đã động viên toàn Đảng bộ hãy cùng nhau
phấn đấu phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm thì nhất định Nam Hà có
thể tiến rất nhanh bởi như đồng chí nói: Nam Hà là một tỉnh lớn ở miền
Bắc, số dân đông, sức lao động nhiều, có kinh tế nông nghiệp phong phú
trên cả ba miền: đồng bằng, miền biển, miền nửa đồi núi, có cơ sở công
nghiệp và thủ công nghiệp tương đối lớn...
Đồng chí Trường Chinh đặc biệt quan tâm tới vấn đề nông nghiệp,
nhất là việc thực hiện Chỉ thị 100. Tháng 3 - 1981, đồng chí thăm huyện
Hải Hậu, huyện Xuân Thuỷ, thăm các xã Hải Trung, Hải Vân, Xuân Hồng.
Hải
Hậu là huyện đi đầu trong phong trào thâm canh của Hà Nam Ninh, là một
trong những huyện làm nông nghiệp giỏi của miền Bắc, là lá cờ đầu xây
dựng đời sống văn hoá. Tình hình khoán sản phẩm của Hải Hậu lúc này đang
diễn ra khá thuận lợi và bước đầu đạt được những kết quả khả quan. Việc
khoán hộ đã tạo ra không khí sản xuất mới ở các hợp tác xã và gia đình
xã viên. Công tác thuỷ lợi nội đồng, các khâu cung ứng phục vụ sản xuất
như giống, phân bón đều có những thay đổi tích cực. Kết quả đó làm cho
đồng chí Trường Chinh rất phấn khởi. Đồng chí đánh giá cao tinh thần
đoàn kết của cán bộ và đảng viên huyện Hải Hậu, đã miệng nói tay làm
cùng nhân dân, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, nghiên cứu tìm tòi,
sáng tạo, áp dụng tốt đường lối của Đảng vào hoàn cảnh thực tế.
Làm
việc với cán bộ chủ chốt của tỉnh, đồng chí Trường Chinh nhắc nhở: phải
nghiên cứu kỹ Chỉ thị 100 của Ban Bí thư để thực hiện tốt, nắm vững mục
đích và nguyên tắc của việc khoán, bàn bạc dân chủ để có hình thức
khoán thích hợp. Phải trên cơ sở thực tế để tổng kết kinh nghiệm, nhân
rộng những điển hình như Hải Hậu trong toàn tỉnh.
Đối với công nghiệp của tỉnh,
đồng chí luôn quan tâm tới Nhà máy dệt Nam Định, cơ sở quan trọng nhất
của tỉnh, nơi chính đồng chí đã gần gũi trong những năm tháng còn là học
sinh ở tỉnh.
Trong
hồi ký của mình, đồng chí đã viết: “Tôi trọ học ở xóm lao động của công
nhân Nhà máy sợi Nam Định... Nhiều chuyện về đời sống công nhân bị bóc
lột, bị cúp phạt, bị đánh đập, tôi đã được nghe, được thấy. Có lần, tôi
thấy một công nhân Nhà máy sợi bị máy nghiền nát hai ngón tay, phải đưa
vào bệnh viện chữa, bị tàn tật nhưng chủ Tây không hề bồi thường... Ở
xóm nhà lá, gia đình nào cũng đói cơm, rách áo, ốm đau không có
thuốc...”(1). Trong suốt cuộc đời mình, những hình ảnh ấy
vẫn day dứt đồng chí Trường Chinh, khiến đồng chí lúc nào cũng nghĩ tới
việc chăm lo đời sống và không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của
giai cấp công nhân.
Năm
1971, đồng chí Trường Chinh đã cùng lãnh đạo tỉnh Nam Hà xuống tận các
buồng máy xem xét tình hình sản xuất, thăm hỏi đời sống công nhân. Đồng
chí đã căn dặn các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của nhà máy: Phải tập
trung cao cho sản xuất, nhanh chóng khôi phục lại nhà xưởng, thiết bị,
nền nếp quản lý, đưa năng suất lên cao, đồng thời quan tâm đến đời sống
công nhân, viên chức nhà máy.
Đặc
biệt hơn, khi đồng chí Trường Chinh về thăm nhà máy lần thứ hai ngày
19/0l/1980, đồng chí đã dành nhiều thời gian và tâm huyết với đội ngũ
công nhân Nhà máy Liên hợp dệt Nam Định.
Đồng
chí đã thăm các phân xưởng, trực tiếp thăm hỏi công nhân về việc làm,
về đời sống. Đồng chí đã gặp gỡ nói chuyện cởi mở và chân tình với gần
700 cán bộ, đảng viên, công nhân viên tiêu biểu tại Hội trường Nhà máy
dệt.
Đ/c Trường Chinh xem mặt hàng do Nhà máy Dệt sản xuất (1980)
Đồng
chí đã nhắc lại sự ra đời và truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang
của đội ngũ công nhân nhà máy qua các chặng đường lịch sử. Trong đó,
đồng chí nhắc lại những cuộc bãi công đấu tranh năm 1924, 1925 đã góp
phần quan trọng trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Với
lòng yêu thương chân tình và sâu sắc, đồng chí nêu lên những hạn chế
trong đời sống công nhân: bữa ăn giữa ca của công nhân nhà máy chưa tốt,
nhà ở còn chật chội, còn hơn l.000 hộ công nhân phải ở ghép. Phúc lợi
tập thể chưa được giải quyết tốt. Đồng chí nhắc nhở: “Tiến hành sản
xuất, thi đua làm lợi cho nhà máy, cho nước nhà nhưng cũng phải làm lợi
cho người lao động”.
Trước
những hiện tượng tiêu cực còn nhiều như ăn cắp của công, lãng phí, kỷ
luật lao động còn lỏng lẻo, đồng chí đã nghiêm khắc chỉ ra khuyết điểm
trong công tác xây dựng Đảng. Đó là việc nội bộ mất đoàn kết kéo dài ở
một số đồng chí có trách nhiệm, đó là quả tạ ghìm chân bước tiến của xí
nghiệp, những tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, mê muội, tham lam và bất công
còn rơi rớt trong mỗi con người chúng ta.
Đồng chí Trường Chinh là nhà văn hoá lớn
nên mỗi lần về quê hương, dù dự Đại hội Đảng bộ của địa phương, dù
xuống đồng ruộng hay vào nhà máy, đồng chí đều nhắc nhở cấp uỷ đảng,
chính quyền cũng như mọi tầng lớp nhân dân phải không ngừng nâng cao
trình độ văn hoá cho quê hương, cho bản thân mình và cho gia đình mình.
Ngay trong Đề cương văn hoá 1943, đồng
chí đã hiểu văn hoá theo nghĩa rộng, coi văn hoá bao trùm lên mọi mặt
của đời sống. Tuy nhiên, đồng chí tập trung vào ba nội dung lớn là tư
tưởng, học thuật và nghệ thuật.
Đ/c Trường Chinh với những người làm công tác điện ảnh
Về
tư tưởng, đồng chí nhắc nhở mọi người đặt vấn đề Tổ quốc lên trên hết,
toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đồng
chí nhắc nhở các cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu về đạo đức để
làm gương cho quần chúng nhân dân, đồng thời phải không ngừng hoàn
thiện lối sống lành mạnh, lối sống có văn hoá trong gia đình và ngoài
thôn xóm.
Về
học thuật (ngày nay ta hiểu là khoa học), đồng chí thường quan tâm tới
việc các địa phương đã mở mang trường lớp như thế nào, thầy giáo có dạy
tốt không, học sinh có chăm chỉ và học giỏi hay không? Đồng chí thường
lấy tấm gương học giỏi, đỗ cao của Nam Định để động viên các thầy giáo
và học sinh.
Trong
việc học tập, đồng chí không chỉ dừng lại ở việc học chữ và trau dồi
một số kiến thức mà điều cơ bản là phải không ngừng hoàn thiện phương
pháp suy nghĩ mà chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem
lại cho nhân dân ta.
Tiếp
thu những lời căn dặn của đồng chí Trường Chinh trong những lần về thăm
quê và đặc biệt là học tập những cuốn sách mà trong suốt cuộc đời của
mình, đồng chí đã nêu lên những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hoá
Việt Nam, tiếp thu tư tưởng văn hoá của đồng chí Trường Chinh, quê hương
Nam Định đã nổi lên như một tỉnh có thành tích vẻ vang về học giỏi, đỗ
cao và liên tục cung cấp cho đất nước nhiều nhà khoa học nổi tiếng.
Về
nghệ thuật, nói rộng ra là cả văn học và nghệ thuật, đồng chí Trường
Chinh đã để lại những tác phẩm lớn, tiếp tục làm kim chỉ nam cho toàn bộ
hoạt động văn học, nghệ thuật từ các khâu sáng tác, biểu diễn, phê
bình, thưởng thức...
Với
một vài điểm khái quát trên đây về sự quan tâm của đồng chí Trường
Chinh đối với quê hương, chúng tôi càng nhận thức sâu sắc rằng: tình quê
hương là những tình cảm trong sáng và tốt đẹp ở mỗi con người. Đối với
đồng chí Trường Chinh, người đã lớn lên từ những truyền thống tốt đẹp
của quê hương thì tình cảm của đồng chí càng sâu nặng. Tuy nhiên, tình
quê hương ở một lãnh tụ dân tộc lại xa lạ với tư tưởng địa phương chủ
nghĩa, với quan điểm vinh thân phì gia mang tính ích kỷ phong kiến. Đồng
chí luôn luôn theo dõi từng bước đi của quê hương, đóng góp những ý
kiến quý báu của mình cho sự phát triển về mọi mặt của quê hương. Không
bao giờ đồng chí vi phạm nguyên tắc của Đảng và Nhà nước để bù đắp riêng
tư cho quê hương mình. Khi nghe cô em gái nói có người chê trách: “Bác
Trường Chinh làm to như
vậy mà không giúp gì cho làng ta cả”, đồng chí Trường Chinh dặn cô em
gái nói lại với người ấy rằng: “Anh làm việc phục vụ cho đất nước ta chứ
đâu làm việc riêng cho làng Hành Thiện được, mong bác ấy và dân làng
thông cảm”.
Câu
nói trên đã khiến cho mọi người càng kính phục đồng chí, càng hết lòng
học tập và noi gương đồng chí, càng thấy lời nói và việc làm của đồng
chí là món quà vô giá đối với mảnh đất và con người của quê hương Nam
Định.
QUÊ HƯƠNG
MÃI MÃI NOI GƯƠNG SÁNG
CỦA ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH
Chúng
ta kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Trường Chinh trong lúc Việt Nam
bước vào một thời kỳ mới vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập
toàn cầu.
Trong
tháng 11 năm 2007, tại Hà Nội đã tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Cũng trong dịp này, cả nước đón
chào Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, gọi tắt là WTO. Hai
sự kiện lịch sử nói trên đánh dấu một bước chuyển biến lớn lao trong
lịch sử phát triển của dân tộc. Hai mươi mốt vị nguyên thủ quốc gia và
gần chục ngàn vị khách quốc tế đã đến Việt Nam, cùng ghi nhận sự tiến bộ
vượt bậc của Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua, đồng thời dự báo
những thành tựu lớn lao của Việt Nam trong thời gian tới.
Những
sự kiện nói trên đã mở ra trước nhân dân ta trong toàn quốc cũng như ở
mỗi địa phương một thời cơ hiếm có và những thách thức chưa lường hết.
Trong tình hình này, tỉnh Nam Định cũng có rất nhiều thuận lợi chưa khai
thác hết nhưng cũng lại đứng trước rất nhiều khó khăn phải vượt qua.
Đ/c Trường Chinh với đại biểu dự Đại hội IV Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, ngày 20/10/1980
Đại
hội Đảng bộ Nam Định lần thứ XVII đã đánh giá những thành công về mọi
mặt trong 5 năm qua; Đồng thời, Nghị quyết của Đại hội về phương hướng
và nhiệm vụ sắp tới đang được khẩn trương thực hiện với nhiều triển vọng
tốt đẹp nhưng cũng không ít khó khăn còn cần phải giải quyết.
Ngày
nay, một không khí mới đang tràn ngập trên đất nước ta. Một loạt vấn đề
mới đang được đặt ra, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh phải có
những nỗ lực rất lớn để vượt qua mọi thách thức, khai thác và sử dụng
được mọi thuận lợi. Nắm vững được thời cơ này, quê hương Nam Định đã và
đang vững vàng tiến tới mục tiêu giàu mạnh, phồn vinh và hạnh phúc.
Vào
WTO là tham gia vào cuộc cạnh tranh giữa Việt Nam với nhiều nước. Làm
thế nào để không những sản phẩm công nghiệp mà ngay cả sản phẩm nông
nghiệp của ta cũng cạnh tranh được trên thị trường thế giới và cả trong
nước? Chúng ta không thể bằng lòng nếu như chất lượng hàng hoá hiện nay
của chúng ta kể cả sản phẩm nông nghiệp đã chế biến hoặc chưa chế biến
còn chưa được nâng cao.
Làn
sóng đầu tư từ các nước trên thế giới đã và sẽ tiếp tục đổ vào Việt
Nam. Liệu Nam Định chúng ta sẽ làm gì để tranh thủ được những khoản đầu
tư có lợi cho sự phát triển của quê hương, đồng thời nâng cao trình độ
công nghệ và cải thiện đời sống của nhân dân?
Làm
thế nào để nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh được hoàn
thiện hơn kể cả các khâu sử dụng tiền vốn, nâng cao kỹ thuật và hoàn
thiện quản lý?
Chúng
ta tin tưởng sự đoàn kết của Đảng bộ và nhân dân trong toàn tỉnh. Nhưng
điều quan trọng hơn cả là làm thế nào để phát huy được những ưu thế vốn
có của quê hương, những bài học quý giá mà quê hương thu nhận được
trong sự nghiệp chiến đấu lâu dài và gian khổ vừa qua? Đặc biệt là làm
thế nào để học tập tấm gương cách mạng, phẩm chất đạo đức và những lời
chỉ bảo ân cần của đồng chí Trường Chinh đối với quê hương, coi đó như
một vũ khí tinh thần cho chúng ta trước mọi thử thách của ngày hôm nay?
Đ/c Trường Chinh làm việc tại xưởng in Hồng Phong (Bắc Việt)
Đ/c
Trường Chinh cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đ/c lãnh đạo thảo luận kế
hoạch quân sự Đông Xuân (1953-1954) và quyết định mở chiến dịch Điện
Biên Phủ
1.
Trước hết là ý chí cách mạng không gì lay chuyển nổi ở đồng chí Trường
Chinh trong sự nghiệp kháng chiến chống những kẻ xâm lược mạnh hơn ta
gấp nhiều lần về mọi mặt kinh tế, kỹ thuật, vũ khí. Trong cuốn “Trường
kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, đồng chí Trường Chinh đã vạch ra
những bước đi cụ thể trên con đường thắng lợi và động viên lòng tin
tưởng và tinh thần dũng cảm của toàn dân trong chiến đấu.
Đồng
chí đã đi đầu trong việc thực hiện lời dạy của Bác Hồ là: “Trung với
nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Hiện
nay, trên con đường xây dựng và phát triển của đất nước cũng như của
quê hương, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ là những khó khăn thử
thách không nhỏ. Nhưng đó là những khó khăn trong thế đi lên đầy triển
vọng của đất nước. Tuy nhiên, những khó khăn ngày nay vẫn không thể so
sánh được với những khó khăn mà nhân dân đã phải đương đầu suốt hai cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Khi đó kẻ thù không những mạnh hơn
ta rất nhiều mà còn vô cùng xảo quyệt và tàn ác. Nhưng dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng mà đồng chí Trường
Chinh là một trong những người chủ chốt, nhân dân Nam Định ngày đêm
sống trong nước sôi lửa bỏng, hết người này ngã xuống, người khác lại
xông lên, tiếp tục chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.
Với
truyền thống ấy, chúng ta có thể tin tưởng rằng, quá trình hội nhập
toàn cầu dù khó khăn đến đâu nhưng với ý chí sắt đá tiếp thu từ tấm
gương sáng của đồng chí Trường Chinh, nhân dân Nam Định nhất định đạt
được những thắng lợi huy hoàng.
Đ/c Trường Chinh cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đ/c Phạm Văn Đồng,
Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Khang tại Chiến khu Việt Bắc
2.
Chúng ta đang sống trong thời đại của Trí tuệ. Hằng ngày, hằng giờ,
trên phạm vi toàn thế giới đang xuất hiện những phát minh mới từ bộ óc
của nhân loại. Khoa học ngày càng tạo những chuyển biến lớn trên mọi
lĩnh vực của đời sống.
Trong
bối cảnh toàn cầu hoá và kinh tế tri thức ngày nay, những nhân tố cực
kỳ quan trọng trong thời gian trước đây như tài nguyên thiên nhiên, sự
hùng mạnh về kinh tế và quân sự cũng chưa quan trọng bằng một nhân tố
của thời đại ngày nay đó là nhân tố trí tuệ.
Ngày
nay, sự thành công của cả dân tộc, của mỗi cơ sở kinh doanh cũng như
của mỗi con người trước hết phụ thuộc vào trình độ trí tuệ. Trí tuệ đang
là thách thức lớn nhất đối với cả nhân loại. Trong cuộc thách thức này,
Việt Nam chúng ta và đặc biệt là quê hương Nam Định có một ưu thế rõ
rệt, đó là truyền thống thông minh và hiếu học. Nam Định quyết tâm khai
thác ưu thế này để đầu tư vào ngành giáo dục, vào việc đào tạo nhân tài
và sử dụng trí thức của tỉnh nhà hiện đang sống trên mọi miền đất nước
và cả ở nước ngoài, ở những nơi tiên tiến nhất của thế giới ngày nay.
Chúng
ta tin rằng, với chính sách đúng đắn của Đảng bộ Nam Định, nguồn trí
tuệ vô tận của tỉnh nhà để tạo nên trên mảnh đất quê hương ngày một giàu
đẹp. Đó là điều mà đồng chí Trường Chinh hằng mong đợi xuất phát từ
truyền thống văn hoá mà đặc biệt là truyền thống trí tuệ của tỉnh nhà.
3.
Đồng chí Trường Chinh là một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
hơn nữa là người thực hiện ở bản thân mình những tư tưởng và phẩm chất
đạo đức của vị lãnh tụ tối cao của dân tộc. Đồng chí thường xuyên quan
tâm, nhắc nhở việc tu dưỡng đạo đức, coi như là điều kiện quan trọng bậc
nhất để chiến thắng kẻ thù, giành lại độc lập, đem lại cuộc sống tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Với tinh thần đạo đức đó, triệu người như một
đã sẵn sàng hy sinh lợi ích của bản thân và gia đình, tuổi trẻ và tình
yêu để phục vụ cho lợi ích cao nhất là độc lập cho Tổ quốc, tự do và
hạnh phúc cho toàn thể nhân dân.
Sau
khi giành lại độc lập và thống nhất trên toàn lãnh thổ, đất nước lâm
vào cuộc khủng hoảng kéo dài, rồi bước vào thời kỳ đổi mới, đạt được
những thành tựu xuất sắc về mọi mặt kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho
một cuộc sống hài hoà giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân.
Đảng
và Nhà nước khuyến khích mọi người ra sức lao động phát triển kinh tế
thị trường vừa làm giàu cho Tổ quốc, vừa làm giàu cho gia đình và bản
thân. Đó là một điều rất hợp lý trong khi cuộc kiến thiết hoà bình đòi
hỏi không chỉ lợi ích cộng đồng mà cả lợi ích của cá nhân đều phải được
quan tâm thích đáng. Sự hài hoà lợi ích trở thành một động lực cho sự
phát triển chung của cả xã hội cũng như của mỗi gia đình, mỗi cá nhân...
Không
nắm vững nguyên tắc nói trên, nhiều người đã đặt lợi ích riêng tư lên
trên lợi ích cộng đồng. Chủ nghĩa ích kỷ ngày một nảy sinh ở nhiều thành
phần xã hội. Nhiều người đã chạy theo lợi ích vật chất, coi nhẹ đời
sống tinh thần. Tình trạng tham nhũng, dối trá, lừa đảo tạo ra một sự
suy thoái về nhiều mặt của đạo đức.
Làm
giàu bất chính đã hủy hoại cuộc sống tốt đẹp của con người, không những
làm hư hỏng bản thân mà còn phá hoại nền tảng hạnh phúc của gia đình,
phá bỏ lòng yêu thương giữa người và người, từ đó, đưa con cháu vào con
đường tội lỗi. Cái hạnh phúc ảo tưởng mà những con người ích kỷ muốn xây
dựng cho bản thân mình sớm muộn sẽ trở thành điều bất hạnh cho bản thân
họ.
Tư
tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những lời căn dặn của đồng
chí Trường Chinh ngày càng sáng tỏ thêm như là lời cảnh báo cho những kẻ
sống ích kỷ đang huỷ diệt cả hạnh phúc và danh dự của họ.
Lúc
sinh thời, đồng chí Trường Chinh viết về đạo đức của Bác Hồ đã nhấn
mạnh sự hoà hợp, hoàn chỉnh giữa nhân, trí, dũng ở con người Bác. Đồng
chí Trường Chinh mong mỏi mọi người hãy sống như Bác. Đó là tình yêu
thương vô hạn với Tổ quốc, với đồng bào, với nhân loại còn đau khổ
(nhân). Đó là tinh thần suốt đời học tập, không ngừng nâng cao trình độ
hiểu biết để có nhận thức sáng suốt trong mọi hoàn cảnh, vượt qua được
mọi khó khăn, thử thách trên con đường phát triển của cộng đồng và của
cá nhân (trí). Đó là tinh thần dũng cảm và khí phách anh hùng để hoàn
thành mọi nhiệm vụ mà Tổ quốc giao phó (dũng).
Ba điều nói trên chính là pháp bảo của chúng ta để đem lại sự giàu mạnh cho Tổ quốc và cuộc sống hạnh phúc cho mỗi người.
Quê
hương ta từ trước đã luôn theo lời căn dặn của đồng chí Trường Chinh và
trong sự nghiệp phát triển hôm nay của Tổ quốc, càng nắm vững những
điều tâm huyết ấy để đạt được thành công trong mọi hoạt động của mình./.
(*): Nguyên Ủy viên BCH TƯ Đảng - Bí thư Tỉnh ủy Nam Định
vv